Wednesday, November 4, 2009

GARP về khoảng cách xã hội trên mạng lưới xã hội

Từ một seminar khác của Richard Blundell, tôi nảy ra ý tưởng áp dụng phương pháp đánh giá phi tham số (nonparametric) về hệ cầu (demand system) của Blundell để đánh giá và làm phép thử (test) về GARP (generalized axiom of revealed preferences) từ thí nghiệm trò chơi "độc tài" (dictator's game) trên mạng lưới xã hội mà tôi đã làm trước đây. Có thể xem thêm về thí nghiệm và kết quả của chúng tôi ở đâyở đây. Về làm phép thử GARP trên thí nghiệm trò chơi độc tài thì Andreoni và Miller đã có một bài báo trên Econometrica 2002. Ý tưởng của tôi sẽ khác ở chỗ coi khoảng cách xã hội (social distance - xem định nghĩa trong bài của tôi) là một thứ "commodity" có ảnh hưởng đến preference của cá nhân, và đánh giá/làm phép thử/dự đoán hành vi cá nhân theo yếu tố này. Tôi đã theo đuổi một ý tưởng tương tự trước đây, song sử dụng mô hình có tham số (mô hình hàm utility theo Cox-Friedman chứ không phải Fehr-Schmidt), và không thành công lắm. Nếu thực hiện đánh giá phi tham số như Blundell thì có thể thành công hơn. Tôi nghĩ đây là ý tưởng khá nghiêm túc và có thể làm research paper tốt được (ở mức PhD).

Post này sẽ viết thêm sau nếu có dịp.

Chênh lệch thu nhập và chênh lệch tiêu dùng

Hôm trước tôi mới dự một seminar của Richard Blundell, trong đó ông thảo luận về 2 bài báo, một bài với Pistaferri và Preston đã đăng trên AER năm 2008, một bài khác còn ở dạng working paper của IFS. Khi nào có thời gian tôi sẽ viết thêm về hướng nghiên cứu này. Về cơ bản, tác giả tiếp cận sự khác biệt giữa chênh lệch giầu nghèo về thu nhập (income inequality) và chênh lệch giầu nghèo về tiêu dùng (consumption inequality), từ đó sử dụng các moments (trên dữ liệu panel) để tách biệt những thành phần shock tạm thời và shock lâu dài trên chuỗi thu nhập, và ảnh hưởng của chúng lên chuỗi tiêu dùng. Từ đó, có thể rút ra nhận định về khả năng bảo hiểm thu nhập nói chung (thông qua các kênh bảo hiểm nhà nước, tư nhân, tiết kiệm, bất động sản, và vô số các kênh khác) trong một nền kinh tế, phân biệt theo các lớp tuổi hay theo các yếu tố khác.

Vấn đề tôi muốn nhắc đến ở đây là các bạn sinh viên kinh tế có thể sử dụng phương pháp này (theo tôi hiểu là không khó lắm về mặt kỹ thuật kinh tế lượng) đối với dữ liệu Việt Nam trong bộ VHLSS. (Tôi có đề xuất vấn đề dùng dữ liệu Indonesia với Blundell, vì dữ liệu Indonesia dài và tốt hơn dữ liệu Việt Nam nhiều, và phát hiện ra rằng Blundell đã bắt đầu làm việc với bộ dữ liệu này rồi.) Kết quả có lẽ sẽ tương đối thú vị, nhất là nếu ta phân biệt theo các lớp tuổi, địa phương, ngành nghề, vv. rồi sau đó có thể so sánh với mức độ phát triển tài chính theo địa phương chẳng hạn.

Chú thích: Tôi dùng blog này để trình bày các ý tưởng kinh tế học mà các bạn sinh viên kinh tế có thể theo đuổi. Ví dụ về ý tưởng nói trên, hoàn toàn có thể làm thành một luận án Thạc sĩ loại tương đối tốt được (tốt hơn luận án tôi từng làm ở DELTA, ENS, Pháp.) Trên blog, tôi sẽ phải dùng kết hợp tiếng Anh và tiếng Việt; mong các bạn dịch giúp các cụm từ tiếng Anh tôi không biết dịch.

Monday, October 12, 2009

Nobel Kinh tế học 2009 - Kết quả

Cuối cùng, giải thưởng năm nay được trao cho hai người. Cái tên thứ nhất được nhắc đến cuối cùng (last, but not least) trong bài trước, Oliver Williamson; cái tên thứ hai tôi hầu như chưa nghe đến bao giờ, Elinor Ostrom. Có lẽ phải tốn nhiều thời gian đọc để biết Ostrom viết về gì. Chắc tôi sẽ bắt đầu bằng bài báo trên Journal of Economic Perspectives của bà, vì đấy là bài duy nhất của bà trên một tạp chí kinh tế danh tiếng (tạp chí này không đăng nghiên cứu sáng tạo mới về kinh tế, mà đăng các bài tổng hợp mang tính trao đổi giữa kinh tế học với thế giới phi kinh viện, hoặc với các ngành khác).

Trên blog của các nhà kinh tế, nhiều người thừa nhận không biết gì về Ostrom (Krugman, Levitt), ngoài ra ít có bình luận về Ostrom. Có Al Roth đồng tình với quyết định trao giải cho Ostrom, vì ông cũng biết ít nhiều về nghiên cứu của bà.

Đối với tôi, sự ngạc nhiên không phải đến từ một phụ nữ hay một nhà chính trị học (political scientist), mà từ một nhà nghiên cứu thực nghiệm với phương pháp tương đối diễn giải, phi toán học. Ở một chừng mực nào đó, Ostrom cũng làm thí nghiệm, giống như Kahneman. Tuy vậy, có lẽ thí nghiệm của Ostrom không để nhằm vào khuôn khổ lý thuyết kinh tế học như Kahneman. Cũng đáng chú ý là ngay Williamson cũng sử dụng phần nhiều phương pháp luận phi toán học.

Đợt này có lẽ mọi sự chú ý sẽ dành cho Ostrom, nhờ vào yếu tố ngạc nhiên. Williamson thì không cần phải nhắc đến nhiều, vì vai trò của ông đã quá rõ, và có nhiều người trông đợi vào việc ông được trao giải. Cũng chú ý rằng Sanford Grossman, Oliver Hart & John Moore chưa hết hy vọng sau khi Williamson được giải: về mặt lý thuyết, có những điểm khác biệt rõ rệt giữa Williamson & mô hình GHM. Tất nhiên, GHM nếu được cũng sẽ phải đợi tương đối lâu.

Monday, October 5, 2009

Nobel Kinh tế học 2009

Vì tính thời sự và độ stress hơn mức cần thiết, blog này bắt đầu bằng một bài không ra đâu vào đâu, trước khi có một lời giải thích hợp lễ. Bài này viết tạm ra để đặt viên gạch dự đoán giải Nobel kinh tế học năm 2009, đặng nếu có vô tình đoán trúng thì người viết có thể nghiễm nhiên tự nhận là có tầm nhìn xuyên thấu.

Website của Thomson Reuters dự đoán thiên về behavioral economics, environmental economics, hay là macroeconomics. Tôi nghĩ cả 3 hướng đều không chính xác. Như thường lệ, dự đoán của tôi vẫn đặt nặng vào những ứng cử viên trước giờ đều ngấp nghé, trừ bớt đi những chuyên ngành mới đây đã được trao giải.

Vì năm ngoái Krugman được giải, nên năm nay đành gạt những tên như Bhagwati, Dixit, Helpman ra khỏi danh sách (cho dù Dixit hay Helpman có thể được giải về political economy - biết đâu đấy?)

Chuyên ngành có nhiều khả năng hơn cả có lẽ là finance, mà ứng cử viên có thể là một bộ đôi khó hợp, Fama và Thaler. Fama (có thể thêm French) cho efficient market hypothesis (CAPM, vv.), Thaler cho behavioral finance.

Trong macro, Barro vẫn ngồi đợi từ lâu. Thêm nữa trong macro có lẽ là Paul Romer, Sargent, Hansen (econometrics nữa), hay là Hall. Thomson Reuters đề xuất Taylor, Gali, Gertler, tôi nghĩ đều ít khả năng.

Nhắc đến econometrics (ngành lúc nào cũng có nhiều khả năng được giải), có thể là Hansen, Sims, Hausman hay Chamberlain.

Có ít khả năng environmental econ được giải, nhưng nếu được thì chắc sẽ như Thomson Reuters dự đoán, là Nordhaus và Weitzman.

Về những ngành khác, development có thể trông chờ vào Deaton, public finance có thể là Auerbach, Diamond hay Feldstein, labor có thể là Murphy hay Katz, micro theory là Kreps, Milgrom, S. Grossman, Hart và Moore, empirical IO là Pakes, Judd (computational). Ngoài ra luôn phải kể Jean Tirole và Oliver Williamson nữa.